Nghiên cứu của SV Trường ĐH FPT Hà Nội xuất sắc đăng kỷ yếu tại Hội nghị quốc tế EBES lần thứ 52
Bốn nhóm sinh viên chuyên ngành Kinh doanh quốc tế, Trường Đại học FPT Hà Nội, dưới sự hướng dẫn của TS. Phạm Thị Xuân Thoa, đã xuất sắc trình bày nghiên cứu tại Hội nghị quốc tế Eurasia Business and Economics Society (EBES) lần thứ 52.

Đây là một trong những diễn đàn học thuật uy tín hàng đầu khu vực Á - Âu trong lĩnh vực kinh doanh và kinh tế, được tổ chức bởi Gulf University for Science & Technology và Bahçeşehir University theo hình thức hybrid, trực tiếp tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ.
Đặc biệt, nghiên cứu của bốn nhóm sinh viên đã vượt qua hai vòng phản biện kín (double-blind review) và được công bố chính thức trong kỷ yếu của Hội thảo EBES, nằm trong hệ thống Citation Index - Social Sciences & Humanities (CPCI-SSH) và Scopus, do Springer xuất bản.
Vốn trí tuệ xanh - chìa khóa để thúc đẩy hiệu suất bền vững
Khai thác chủ đề về chuyển đổi bền vững, nhóm sinh viên gồm Nguyễn Đỗ Thu Hương, Phùng Linh Nhi, Nguyễn Thị Minh Ánh, Nguyễn Thị Khánh Vi, Kiều Thị Thu Hương nghiên cứu đề tài "The role of green intellectual capital in facilitating sustainable performance" (tạm dịch: Vai trò của vốn trí tuệ xanh trong việc thúc đẩy hiệu suất bền vững: Nghiên cứu thực nghiệm về các công ty Việt Nam".

Từ bối cảnh thực tế nhiều doanh nghiệp đang đối mặt với sức ép chuyển đổi mô hình phát triển trước những hệ lụy từ chuỗi cung ứng truyền thống, nhóm nghiên cứu đã phân tích vai trò của Vốn trí tuệ xanh (Green Intellectual Capital – GIC) trong việc thúc đẩy hiệu suất phát triển bền vững, thông qua chuỗi cung ứng xanh (GSCI) và hệ thống kinh tế tuần hoàn (CES).
Với dữ liệu khảo sát từ 206 doanh nghiệp B2B trong ngành sản xuất, mô hình PLS-SEM cho thấy rằng việc đầu tư vào nhân lực, công nghệ và hợp tác xanh là điều kiện then chốt để doanh nghiệp nâng cao hiệu quả kinh tế đồng thời giảm tác động môi trường. Nghiên cứu góp phần lấp đầy khoảng trống lý thuyết về vai trò trung gian của GSCI và CES, đặc biệt trong bối cảnh các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam còn gặp nhiều rào cản trong quá trình chuyển đổi xanh.
Nhận thức công lý trong hợp tác - nền tảng quyết định hiệu suất chuỗi cung ứng
Nhận thấy tầm quan trọng của yếu tố minh bạch và công bằng trong hợp tác B2B, nhóm sinh viên Nguyễn Thị Nhàn, Nguyễn Yến Nhi, Nguyễn Hữu Nghĩa, Ngô Hồng Nhung đã thực hiện nghiên cứu "Justice perception: Determinants and the impacts on B2B performance in Vietnamese supply chain".

Dựa trên dữ liệu khảo sát từ 312 doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam, nghiên cứu đã chỉ ra nhận thức công lý - đặc biệt từ phía nhà cung cấp về sự công bằng trong chính sách mua sắm là yếu tố then chốt ảnh hưởng đến niềm tin, hiệu suất và mối quan hệ lâu dài trong chuỗi cung ứng.
Kết quả nghiên cứu đề xuất các doanh nghiệp cần xây dựng bộ quy tắc ứng xử công bằng, tăng cường truyền thông minh bạch và tạo ra môi trường hợp tác dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau. Đây được xem là nền tảng cho việc cải thiện hiệu suất và giảm thiểu rủi ro tranh chấp trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng.
Chuyển đổi số góp phần nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng
Trong làn sóng chuyển đổi số mạnh mẽ, nhóm sinh viên Nguyễn Thị Minh Thương, Hoàng Thiên Anh, Phạm Thị Hà Chi, Nguyễn Minh Anh, Trần Nhật Minh đã thực hiện đề tài "Empirical study on production supply chain analytics: Enablers and performance outcomes", nghiên cứu tác động của công nghệ 4.0 đối với năng lực phân tích chuỗi cung ứng.

Nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng với dữ liệu khảo sát từ 302 doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam. Đối tượng khảo sát là các quản lý cấp trung và cao cấp và người trực tiếp đại diện mua hàng trong chuỗi cung ứng. Dữ liệu được phân tích bằng phương pháp SEM - PLS để kiểm định mô hình nghiên cứu và các giả thuyết đề xuất. Nghiên cứu tập trung phân tích các yếu tố thúc đẩy hiệu quả phân tích sản xuất và vai trò của năng lực này trong việc cải thiện hiệu suất doanh nghiệp, đặc biệt trong điều kiện bất ổn môi trường ngày càng gia tăng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy vai trò quan trọng của chuyển đổi số trong việc nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng. Kết quả cũng chỉ ra rằng các năng lực nội tại đóng vai trò trung gian trong quá trình biến đổi công nghệ thành giá trị thực tiễn. Đồng thời, bối cảnh môi trường bên ngoài có ảnh hưởng nhất định đến mức độ phát huy hiệu quả của các năng lực này.
Nghiên cứu không chỉ mở rộng lý thuyết về mô hình chuỗi cung ứng trong bối cảnh số hóa, mà còn đưa ra hàm ý thực tiễn rõ ràng: để khai thác giá trị từ đầu tư công nghệ, doanh nghiệp cần xây dựng năng lực phân tích phù hợp với từng giai đoạn của chuỗi cung ứng, đồng thời tăng cường khả năng thích ứng trước biến động thị trường.
Chuỗi cung ứng thúc đẩy chiến lược triple A và nâng cao hiệu suất doanh nghiệp
Cùng khai thác chủ đề về phân tích chuỗi cung ứng, nhóm sinh viên Lê Ngọc Linh, Nguyễn Ngọc Ánh, Nguyễn Thị Bích Ngọc, Đỗ Thị Trúc Quỳnh, Nguyễn Ngọc Bảo Chung đã nghiên cứu đề tài "The role of supply chain analytics in facilitating triple A strategies and firm performance".

Dựa trên khảo sát 373 công ty sản xuất, nhóm nghiên cứu đã phân tích cách phân tích chuỗi cung ứng (SCA) hỗ trợ triển khai chiến lược Triple A (Agility - Adaptability - Alignment), từ đó cải thiện hiệu suất doanh nghiệp. Nghiên cứu xác nhận rằng SCA là một năng lực động thiết yếu giúp doanh nghiệp tại Việt Nam triển khai hiệu quả chiến lược Triple A, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động. Đặc biệt, trong bối cảnh biến động công nghệ và cấu trúc tổ chức tập trung quyền lực, sự hỗ trợ của lãnh đạo cấp cao và năng lực thích ứng công nghệ là hai yếu tố điều tiết quan trọng giúp doanh nghiệp tận dụng được tiềm năng của SCA một cách tối ưu.
Thu Uyên - fpt.edu.vn